Cùng Phòng GD&DT Sa Thầy đọc bài Thuyết minh về chùa Bái Đính (Dàn ý + 6 mẫu). Văn mẫu lớp 8: Thuyết minh về chùa Bái Đính gồm dàn ý chi tiết, cùng 6 bài văn mẫu, giúp các em học sinh lớp 8 tham khảo, dễ dàng hoàn thiện bài thuyết minh danh lam thắng cảnh của mình.
Tâm linh đóng vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống của người Việt. Dọc dải đất hình chữ S có rất nhiều địa điểm thờ cúng như đình, đền, chùa, miếu, phủ, tuy nhiên không phải ai cũng hiểu được sự khác biệt về ý nghĩa cũng như nghi thức thờ cúng ở những địa điểm đó.
Nhưng bây giờ thì khác, tâm nguyện Lương phi đã được đền bù, cha ta cũng sắp giao ra quân quyền rời khỏi triều đình, ta đã không còn giá trị lợi dụng với Hoàng thượng nữa, nếu không cho bà biết được sự thật, ta sợ bà lại đốc thúc ta đi tranh giành tình cảm, như
Nếu vị nào tới chùa mà mang danh vị chức tước, quyền uy thế lực… thì cửa chùa tuy mở rộng đó mà lại khép kín. Ngược lại, với con người chỉ với một tấm lòng thành, chỉ một tấm lòng thành như vậy thôi mà cửa chùa luôn luôn mở rộng với mình. Đình là gì ?
Trong đời sống văn hóa tâm linh của người Việt Nam có rất nhiều nơi thờ cúng khác nhau như đình, đền, chùa, miếu, phủ, quán, am,… Nhưng không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của những địa điểm thờ cúng đó.
Với người Việt, am là nơi thờ Phật (Hương Hải am tức Chùa Thầy, Thọ Am tức Chùa Đậu – Hà Tây…) cũng có khi am là ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của xóm làng – Vào thế kỷ XV (thời Lê sơ) là nơi ở tĩnh mịch để đọc sách làm thơ của văn nhân. Miếu thờ thần linh
h1sB0hk. Tìm hiểu sự khác nhau giữa các công trình tín ngưỡngPhân biệt ý nghĩa của Đình Đền Chùa MiếuVào ngày đầu năm, mọi người thường hay đi lễ chùa cầu an. Những địa điểm như đình, đền, chùa, miếu mạo... Cũng là những địa điểm thờ cúng trong đời sống tâm linh của người Việt. Nhưng không phải ai cũng biết ý nghĩa của các công trình này thờ ai. Trong bài viết này VnDoc sẽ chia sẻ cho các bạn một số thông tin để phân biệt sự khác nhau giữa đình, đền, chùa, miếu và các công trình tín ngưỡng ngôi chùa cầu may linh thiêng nhất cho năm mớiBài khấn khi đi chùaTrong đời sống văn hóa tâm linh của người Việt Nam có rất nhiều nơi thờ cúng khác nhau như đình, đền, chùa, miếu, phủ, quán, am,... Nhưng không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của những địa điểm thờ cúng đó. Cho nên có rất nhiều người đi chùa mà không hiểu được ý nghĩa của việc đi chùa, ở gần nhà có cái đình mà cũng không hiểu vì sao cái đình lại "mọc" lên ở đó,...Cách phân biệt Đình, Đền, Chùa, Miếu, Phủ...1. Chùa là gì?Chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo, là nơi tập trung sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng, ni. Mọi người kể cả tín đồ hay người không theo đạo đều có thể đến thăm viếng, nghe giảng kinh hay thực hành các nghi lễ Phật một số nơi, chùa cũng là nơi cất giữ xá lị và chôn cất các vị đại Đình là gì?Đình là nơi thờ Thành hoàng của các làng, đồng thời là nơi hội họp, bàn việc của dân làng. Đình được coi là trung tâm sinh hoạt văn hóa gắn bó với một cộng đồng cư dân và mang đặc trưng của nền văn minh lúa nước Việt hoàng là người có công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng lập nên một nghề ông tổ của nghề. Dưới các triều vua thường có sắc phong cho Thành hoàng, vì hầu hết Thành hoàng đều có công với nước. Dân làng, hay phường hội đi lập nghiệp nơi khác cũng xây miếu, đền thờ Thành hoàng quê gốc của mình tại nơi ở Đền là gì?Đền là công trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị Thánh hoặc những nhân vật lịch sử được tôn sùng như thần thánh. Ở Việt Nam, phổ biến nhất là các đền thờ được xây dựng để ghi nhớ công ơn của các anh hùng có công với đất nước hay công đức của một cá nhân với địa phương được dựng theo truyền thuyết dân đền nổi tiếng có thể kể đến ở nước ta như Đền Hùng, đền Kiếp Bạc, đền Sóc, đền Trần... thờ các anh hùng dân Voi Phục, đền Bạch Mã, đền Kim Liên, đền Quán Thánh...thờ các vị thánh theo truyền thuyết dân Miếu là gì?Miếu là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có quy mô nhỏ hơn đền. Đối tượng được thờ ở miếu rất đa dạng, thể hiện ở tên gọi của miếu – tên gọi theo đối tượng được thờ thường phiếm chỉ và tượng trưng. Ví dụ miếu Cô, miếu Cậu, miếu thờ thần núi gọi chung là miếu Sơn thần, miếu thờ thần nước gọi là miếu Hà Bá hoặc miếu Thủy thần. Miếu thờ thần đất gọi là miếu thổ thần hoặc thần Hậu thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để quỷ thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân sinh. Ở một số nơi, trong các ngày giỗ thần như ngày sinh, ngày hóa nhân thần, ngày hiện hóa thiên thần làng mở tế lễ, mở hội, nghinh rước thần từ miếu về đình. Tế lễ xong, lại rước thần về miếu yên nhỏ còn được gọi là Miễu cách gọi của người miền Nam5. Nghè là gì?Một hình thức của đền miếu, thờ thần thánh. Đây là kiến trúc thường có mối quan hệ chặt chẽ với một di tích trung tâm nào đó. Nghè có khi thờ thành hoàng làng ở làng nhỏ, được tách ra từ làng gốc như Nghè Hải Triều Cẩm Giàng – Hải Dương.Nghè cũng có thể là một ngôi đền nhỏ của một thần trong xã nhằm thích ứng với dân sở tại để tiện việc sinh hoạt tâm linh khi ngôi đền chính khó đáp ứng được nhu cầu thờ cúng thường nhật, như Nghè ở Trường Yên là một kiến trúc phụ của đền vua Điện thờ là gì?Điện là sảnh đường cao lớn, thường chỉ chỗ Vua Chúa ở, chỗ Thần Thánh ngự. Như vậy Điện thờ là một hình thức của Đền, là nơi thờ Thánh trong tín ngưỡng Tam tứ phủ. Tuy vậy quy mô của Điện nhỏ hơn Đền và Phủ, lớn hơn so với Miếu Thờ. Điện thông thường thờ Phật, thờ Mẫu, Công đồng Tam tứ phủ, Trần Triều và các vị thần nổi tiếng có thể của cộng đồng hoặc tư nhân. Trên bàn thờ thường có ngai, bài vị, khám, tượng chư vị thánh thần và các đồ thờ khác tam sơn, bát hương, cây nến, đài, lọ hoa, vàng mã,...7. Phủ là gì?Phủ là đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu tín ngưỡng bản địa của người Việt Nam. Một số nơi thờ tự ở Thanh Hóa gọi đền là phủ. Có thể hiểu Phủ là nơi thờ tự Thánh Mẫu khá sầm uất, mang tính chất trung tâm của cả một vùng lớn, vượt ra ngoài phạm vi địa phương, thu hút tín đồ khắp nơi đến hành hương tương tự như chốn Tổ của sơn môn đạo Phật. Ngôi phủ sớm nhất còn lại hiện biết là điện thờ các thần vũ nhân ở chùa Bút Tháp, có niên đại vào giữa thế kỷ Quán là gì?Quán là một dạng đền gắn với đạo Lão Đạo giáo. Vào các thế kỷ XI và XIV đạo Lão ở Việt nặng xu hướng thần tiên nên điện thờ thực chất giống như một đền thờ thần thánh. Sang tới thế kỷ XVI và XVII, sự khủng hoảng của Nho giáo đã đẩy một số nhà Nho và một bộ phận dân chúng quan tâm nhiều tới Lão giáo, và điện thờ đạo Lão có nhiều sự phát triển mới, với việc thờ cúng các thần linh cơ bản theo Trung Hoa. Đó là Tam thanh Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Đạo Quân, Thái Thượng Lão Quân, Ngũ Nhạc mà nổi lên với Đông Phương Sóc và Tây Vương Mẫu, rồi Thánh Phụ, Thánh Mẫu. Cửu Diệu Tinh Quân Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Mặt Trời, Mặt Trăng, Hồ phủ, Kế đô đồng thời trên chính điện cũng có cả tượng của Hoàng Quân giáo chủ Ngọc Hoàng.Có thể kể tới các quán điển hình như Hưng Thánh Quán, Lâm Dương Quán, Hội Linh Quán, Linh Tiên Quán... đều ở Hà Tây cũ nay là Hà Nội. "Thăng Long Tứ quán" bao gồm Chân Vũ quán tức đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh; Huyền Thiên cổ quán nay là chùa Quán Huyền Thiên ở phố Hàng Khoai; Đồng Thiên quán nay là chùa Kim Cổ ở phố Đường Thành; Đế Thích quán nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên.9. Am là gì?Hiện được coi là một kiến trúc nhỏ thờ Phật. Gốc của Am từ Trung Quốc, được mô tả như ngôi nhà nhỏ, lợp lá, dùng làm nơi ở của con cái chịu tang cha mẹ, về sau đổi kết cấu với mái tròn, lợp lá, làm nơi ở và nơi đọc sách của văn nhân. Từ đời Đường, Am là nơi tu hành và thờ Phật của ni cô đặt trong vườn tư người Việt, Am là nơi thờ Phật Hương Hải am tức Chùa Thầy, Thọ Am tức Chùa Đậu – Hà Tây... cũng có khi am là ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của xóm làng – Vào thế kỷ XV thời Lê sơ là nơi ở tĩnh mịch để đọc sách làm thơ của văn nhân. Miếu thờ thần linh ở các làng hoặc miếu cô hồn ở bãi tha ma cũng gọi là Am.
07/04/2023 Đời sống tâm linh là một phần quan trọng trong cuộc sống của người Việt, thậm chí được quan tâm chăm chút có phần nhỉnh hơn so với đời sống vật chất thường ngày. Đây là một truyền thống có từ lâu đời của dân tộc Việt Nam, được gìn giữ và lưu truyền qua các thế hệ. Đi từ cực Bắc Hà Giang cho đến mũi Cà Mau, có thể dễ dàng nhận ra những hệ thống thờ tự với nhiều dạng thức phong phú đa dạng. Trong đó, nổi bật và chiếm đa số có thể nhắc đến như đình, đền và chùa. Cùng là nơi thờ phụng, thực hành tâm linh của người dân, nhưng đình, đền và chùa có nhiều điểm khác biệt, được xây dựng nhằm phục vụ những mục đích không hoàn toàn giống nhau. Đình Thời xa xưa, đình làng chỉ là một nơi để nghỉ chân. Đến năm 1231, thượng hoàng Trần Huy Tông xuống chiếu chỉ cho đắp tượng Phật ở đình quán. Năm 1491, vua Lê Thánh Tông cho xây dựng Quảng Văn đình ngoài cửa Đại Hưng nay là Cửa Nam, Hà Nội, là nơi để dân đánh trống kêu oan và bố cáo những chính sách của triều đình. Đến thời Lê Sơ, đình làng mới dần định hình chức năng thờ Thành hoàng và là nơi hội họp của người dân trong làng. Mọi công việc quan trọng của làng đều được tổ chức ở đây. Tục thờ Thành hoàng bắt đầu du nhập vào nước ta từ thế kỉ XV, trở nên phổ biến rộng rãi vào thế kỉ XVI. Các làng quê ở miền Bắc chịu ảnh hưởng của phong tục này sâu sắc hơn làng quê miền Nam – vốn mới được hình thành các năm sau này. Thành hoàng là một vị thần không có tên tuổi, lai lịch cụ thể, được xem là vị thần “hộ quốc tỳ dân”, trấn giữ an nguy cho địa phương nơi vị thần ấy được thờ tự. Kiến trúc của những ngôi đình được xây dựng dựa trên những nguyên tắc phong thuỷ. Địa điểm xây đình thường được chọn tại vị trí trung tâm, thuận tiện cho dân làng hội họp vào các dịp lễ hội. Đình làng thường nhìn ra sông, hoặc phải có ao, giếng làng phía trước cho đúng thế “tụ thuỷ”, là điềm mang lại sự thịnh vượng cho cả làng. Đền Khác với đình làng, đền thờ là công trình được xây dựng để thờ một vị thần cụ thể, có tên tuổi rõ ràng trong tôn giáo hoặc tín ngưỡng địa phương, ví dụ như đền Voi Phục, đền Bạch Mã, đền Quán Thánh, đền Gióng,… Nhiều nơi, đền được xây dựng để thờ những vị quan giỏi tướng tài, có công với đất nước, dân tộc, như đền thờ Vua Hùng, đền thờ Hai Bà Trưng, đền thờ Đức Thánh Trần,… Đền thờ thường được xây dựng tại địa điểm được cho là gắn liền với xuất thân hoặc nơi diễn ra các sự tích liên quan đến các vị thần. Với các danh tướng, người có công với dân tộc, đền thờ thường được đặt tại quê hương các Ngài hoặc những nơi tôn nghiêm, trang trọng. Người dân đến đền dâng hương để bày tỏ sự biết ơn, tưởng nhớ đến các vị thần, các anh hùng dân tộc, đồng thời bày tỏ ước ao được che chở, có nhiều may mắn cũng như thừa hưởng những đức tính uy dũng của các Ngài. Chùa Chùa là một công trình kiến trúc phục vụ mục đích tín ngưỡng. Chùa trong tiếng Hán Việt có nghĩa là “tự viện”, là nơi an trí tôn tượng các vị Phật và Bồ Tát, là chỗ lưu trú, tu tập của các vị tăng ni. Dù theo đạo Phật hay không có bất cứ một tín ngưỡng nào, bất cứ ai cũng có thể viếng thăm chùa mà không gặp trở ngài nào. Nếu như đình thường được xây dựng tại trung tâm làng xã, đền xây dựng ở những nơi gắn liền với các điển tích lịch sử, thì chùa, thường được xây dựng ở những khu vực yên tĩnh, tách biệt với cộng đồng làng xã, thường gặp nhất là trên những đỉnh núi cao. Chùa Việt Nam thường không phải là một công trình riêng biệt mà là một quần thể kiến trúc, gồm nhiều công trình nhỏ đặt cạnh nhau như đại điện, khu vực lưu trú của tăng ni, các gian thờ phụ, nơi lưu trú cho khách, nhà bếp,… Tuỳ theo các nhánh nhỏ trong Phật giáo mà kiến trúc chùa cũng có sự khác biệt.
Đình, đền, chùa, miếu mạo … là những địa điểm thờ cúng trong đời sống tâm linh của người Việt. Nhưng không phải ai cũng biết ý nghĩa của các công trình này thờ ai, khác nhau thế nào và văn khấn thế nào. Đền thờ vua Hùng – một công trình trong quần thể Đền thờ vua Hùng Đền là nơi thờ những nguời thật, việc thật.. có công, có sức ảnh huởng to lớn đến tinh thần nguời dân họ tạo cho nguời dân tin tuởng, sùng bái và đuợc phong thánh hoặc thần giống như Hưng Đạo Vuơng Trần Quốc Tuấn, Bác Hồ.. Các đền nổi tiếng có thể kể đến ở nước ta như Đền Hùng, đền Kiếp Bạc, đền Sóc, đền Trần… thờ các anh hùng dân tộc. Đền Voi Phục, đền Bạch Mã, đền Kim Liên, đền Quán Thánh…thờ các vị thánh theo truyền thuyết dân gian. Miếu thờ Miếu là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, có quy mô nhỏ hơn đền. Miếu thường ở xa làng, yên tĩnh, thiêng liêng và là nơi thờ các vị thánh thần. Khi miếu phối hợp với thờ Phật thì được gọi là Am, ở Nam bộ gọi là Miễu. Miếu và đền về kiểu mẫu thì giống nhau, chỉ khác nhau về quy mô. Các miếu thường thờ các vị thần như miếu thổ thần, thủy thần, sơn thần, miếu cô, miếu cậu… Miếu Nhị Phủ ở thành phố Hồ Chí Minh – của người Hoa Chùa Việt Nam Chùa là công trình kiến trúc phục vụ mục đích tín ngưỡng của đạo Phật, đây là thờ Phật đồng thời là nơi ở sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng ni. Đây là nơi những tín đồ đạo Phật lui tới để nghe thuyết giảng và thực hiện các nghi lễ tôn giáo. Ở một số nơi, chùa cũng là nơi cất giữ xá lị và chôn cất các vị đại sư. Việt Nam có một số chùa lớn như chùa Bái Đính, chùa Dâu, chùa Bút Tháp, chùa Tây Phương… Kiến trúc chùa Tây Phương Đình Làng Đình là công trình kiến trúc cổ truyền của làng quê Việt Nam, là nơi thờ Thành hoàng và cũng là nơi hội họp của người dân. Ban đầu, đình là điểm quán để nghỉ của các làng mạc Việt Nam. Đến khoảng giữa thế kỷ 13, vua Trần Nhân Tông cho đắp các tượng Phật ở các đình quán. Sau đó, đến thời Lê sơ, các đình làng bắt đầu là nơi thờ thành hoàng làng và là nơi hội họp của dân chúng. Đình làng thường được bố trí ở trung tâm làng xã, địa điểm thoáng đãng nhìn ra sông nước. Trong tiềm thức văn hóa người Việt, đình làng gắn liền với hình ảnh cây đa, giếng nước, là địa điểm sinh hoạt chung và hồn vía của làng xã. Các ngôi đình nổi tiếng như Đình Bảng, đình Thổ Hà, đình Bát Tràng… Đình Bảng Bắc Ninh Phủ thờ Phủ thường là nơi thờ Mẫu – phủ Gầy, phủ Tây Hồ… một số nơi thờ tự không nhất thiết thờ Mẫu ở Thanh Hóa cũng gọi đền là phủ. Suy cho cùng phủ là một nơi thờ tự Thánh mẫu khá sầm uất, mang tính chất trung tâm của cả một vùng lớn, vượt ra ngoài phạm vi địa phương, thu hút tín đồ khắp nơi đến hành hương tương tự như chốn Tổ của sơn môn đạo Phật. Ngôi phủ sớm nhất còn lại hiện biết là điện thờ các thần vũ nhân ở chùa Bút Tháp, có niên đại vào giữa thế kỷ VVII. Quán Một dạng đền gắn với đạo Lão Đạo giáo. Tùy theo từng thờ mà có các dạng thức thờ tự khác nhau. Vào các thế kỷ XI và XIV đạo Lão ở Việt nặng xu hướng thần tiên nên điện thờ thực chất chỉ như của một ngôi đền thờ vị thần thánh cụ thể. Bích câu đạo quán Như Bích Câu đạo quán thờ Tú Uyên, rồi đền thờ Từ Thức… Sang tới thế kỷ XVI và XVII, sự khủng hoảng của Nho giáo đã đẩy một số nhà Nho và một bộ phận dân chúng quan tâm nhiều tới Lão giáo, và điện thờ đạo Lão có nhiều sự phát triển mới, với việc thờ cúng các thần linh cơ bản theo Trung Hoa. Đó là Tam thanh Nguyên Thủy Thần Tôn, Linh Bảo Đạo Quân, Thái Thượng Lão Quân, Ngũ Nhạc mà nổi lên với Đông Phương Sóc và Tây Vương Mẫu, rồi Thánh Phụ, Thánh Mẫu. Cửu Diệu Tinh Quân Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Mặt Trời, Mặt Trăng, Hồ phủ, Kế đô đồng thời trên chính điện cũng có cả tượng của Hoàng Quân giáo chủ Ngọc Hoàng – Có thể kể tới các quán điển hình như Hưng Thánh Quán, Lâm Dương Quán, Hội Linh Quán, Linh Tiên Quán… đều ở Hà Tây. Am Hiện được coi là một kiến trúc nhà thờ Phật. Gốc của Am được nghĩ tới từ Trung Quốc, được mô tả như ngôi nhà nhỏ, lợp lá, dùng Làm nơi ở của con cái chịu tang cha mẹ, về sau đổi kết cấu với mái tròn, lợp lá, làm nơi ở và nơi đọc sách của văn nhân. Từ đời Đường, Am là nơi tu hành và thờ Phật của ni cô đặt trong vườn tư gia. Với người Việt, Am là nơi thờ Phật Hương Hải am tức Chùa Thầy, Thọ Am tức Chùa Đậu – Hà Tây… cũng có khi là ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của xóm làng – Vào thế kỷ XV thời Lê sơ Am còn là nơi ở tĩnh mịch để đọc sách làm thơ của văn nhân. Như vậy, đền, miếu, đình là những công trình kiến trúc xuất phát ban đầu từ tín ngưỡng thờ cúng dân gian, nơi đây thờ các vị thánh thần theo truyền thuyết dân gian hoặc những vị anh hùng có công với đất nước, với địa phương được nhân dân tôn xưng là thánh Đức Thánh Trần, Thánh Gióng, thành hoàng làng…. Ở mỗi đơn vị đình, miếu, đền thường chỉ thờ 1 vị thánh thần theo tín ngưỡng của địa phương đền Kiếp Bạc thờ Trần Hưng Đạo, miếu thủy thần thờ thần nước, đình làng thờ Thành hoàng là của mỗi địa phương…. Chùa là nơi thờ Phật, Bồ Tát cùng những nhân vật trong hệ phái Phật giáo. Do ảnh hưởng tư tưởng Tam giáo đồng nguyên Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo từ thời nhà Lý nên một số ngôi chùa còn thờ đồng thời cả Phật, Thái thượng Lão quân và Khổng Tử. Việc thờ Phật ở chùa, thờ thánh thần ở đình, đền, miếu và tục thờ cúng tổ tiên của người Việt có điểm chung đó là đều xuất phát từ lòng biết ơn, thành kính hướng tới những người có công cứu rỗi cho cộng đồng, địa phương, những người có công tái tạo và dưỡng dục những thế hệ con người. Đó đều là những hoạt động tâm linh quan trọng trong đời sống văn hóa tín ngưỡng của người Việt. Sưu tầm Tham khảo bài viết về những điều cần biết về thiết kế trước khi dựng nhà Liên hệ Chuyên gia thiết kế nhà gỗ Nguyễn Huy Khiêm Địa chỉ Thôn Phú Đa, Cần Kiệm, Thạch Thất, Hà Nội Điện thoại0936 247 222
Đình làng Đình Bảng. Bài viết này sẽ giúp bạn đọc dễ dàng phân biệt được các địa điểm thờ cúng khác nhau, hiểu được ý nghĩa của việc thờ cúng và những nhân vật được thờ cúng trong đó. Chùa là gì? Chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo, là nơi tập trung sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng, ni. Mọi người kể cả tín đồ hay người không theo đạo đều có thể đến thăm viếng, nghe giảng kinh hay thực hành các nghi lễ Phật giáo. Ở một số nơi, chùa cũng là nơi cất giữ xá lị và chôn cất các vị đại sư. Đình là gì? Đình là nơi thờ Thành hoàng của các làng, đồng thời là nơi hội họp, bàn việc của dân làng. Đình được coi là trung tâm sinh hoạt văn hóa gắn bó với một cộng đồng cư dân và mang đặc trưng của nền văn minh lúa nước Việt Nam. Thành hoàng là người có công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng lập nên một nghề ông tổ của nghề. Dưới các triều vua thường có sắc phong cho Thành hoàng, vì hầu hết Thành hoàng đều có công với nước. Dân làng, hay phường hội đi lập nghiệp nơi khác cũng xây miếu, đền thờ Thành hoàng quê gốc của mình tại nơi ở mới. Đền là gì? Đền là công trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị Thánh hoặc những nhân vật lịch sử được tôn sùng như thần thánh. Ở Việt Nam, phổ biến nhất là các đền thờ được xây dựng để ghi nhớ công ơn của các anh hùng có công với đất nước hay công đức của một cá nhân với địa phương được dựng theo truyền thuyết dân gian. Các đền nổi tiếng có thể kể đến ở nước ta như Đền Hùng, đền Kiếp Bạc, đền Sóc, đền Trần… thờ các anh hùng dân tộc. Đền Voi Phục, đền Bạch Mã, đền Kim Liên, đền Quán Thánh…thờ các vị thánh theo truyền thuyết dân gian. Miếu là gì? Miếu là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có quy mô nhỏ hơn đền. Đối tượng được thờ ở miếu rất đa dạng, thể hiện ở tên gọi của miếu – tên gọi theo đối tượng được thờ thường phiếm chỉ và tượng trưng. Ví dụ miếu Cô, miếu Cậu, miếu thờ thần núi gọi chung là miếu Sơn thần, miếu thờ thần nước gọi là miếu Hà Bá hoặc miếu Thủy thần. Miếu thờ thần đất gọi là miếu thổ thần hoặc thần Hậu thổ. Miếu thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để quỷ thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân sinh. Ở một số nơi, trong các ngày giỗ thần như ngày sinh, ngày hóa nhân thần, ngày hiện hóa thiên thần làng mở tế lễ, mở hội, nghinh rước thần từ miếu về đình. Tế lễ xong, lại rước thần về miếu yên vị. Miếu nhỏ còn được gọi là Miễu cách gọi của người miền Nam. Nghè là gì? Một hình thức của đền miếu, thờ thần thánh. Đây là kiến trúc thường có mối quan hệ chặt chẽ với một di tích trung tâm nào đó. Nghè có khi thờ thành hoàng làng ở làng nhỏ, được tách ra từ làng gốc như Nghè Hải Triều Cẩm Giàng – Hải Dương. Nghè cũng có thể là một ngôi đền nhỏ của một thần trong xã nhằm thích ứng với dân sở tại để tiện việc sinh hoạt tâm linh khi ngôi đền chính khó đáp ứng được nhu cầu thờ cúng thường nhật, như Nghè ở Trường Yên là một kiến trúc phụ của đền vua Đinh. Hiện ngôi nghè cổ nhất được tìm thấy từ thế kỷ XVII. Điện thờ là gì? Điện là sảnh đường cao lớn, thường chỉ chỗ Vua Chúa ở, chỗ Thần Thánh ngự. Như vậy Điện thờ là một hình thức của Đền, là nơi thờ Thánh trong tín ngưỡng Tam tứ phủ. Tuy vậy quy mô của Điện nhỏ hơn Đền và Phủ, lớn hơn so với Miếu Thờ. Điện thông thường thờ Phật, thờ Mẫu, Công đồng Tam tứ phủ, Trần Triều và các vị thần nổi tiếng khác. Điện có thể của cộng đồng hoặc tư nhân. Trên bàn thờ thường có ngai, bài vị, khám, tượng chư vị thánh thần và các đồ thờ khác tam sơn, bát hương, cây nến, đài, lọ hoa, vàng mã,… Phủ là gì? Phủ là đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu tín ngưỡng bản địa của người Việt Nam. Một số nơi thờ tự ở Thanh Hóa gọi đền là phủ. Có thể hiểu Phủ là nơi thờ tự Thánh Mẫu khá sầm uất, mang tính chất trung tâm của cả một vùng lớn, vượt ra ngoài phạm vi địa phương, thu hút tín đồ khắp nơi đến hành hương tương tự như chốn Tổ của sơn môn đạo Phật. Ngôi phủ sớm nhất còn lại hiện biết là điện thờ các thần vũ nhân ở chùa Bút Tháp, có niên đại vào giữa thế kỷ XVII. Quán là gì? Quán là một dạng đền gắn với đạo Lão Đạo giáo. Vào các thế kỷ XI và XIV đạo Lão ở Việt nặng xu hướng thần tiên nên điện thờ thực chất giống như một đền thờ thần thánh. Bích Câu đạo quán. Sang tới thế kỷ XVI và XVII, sự khủng hoảng của Nho giáo đã đẩy một số nhà Nho và một bộ phận dân chúng quan tâm nhiều tới Lão giáo, và điện thờ đạo Lão có nhiều sự phát triển mới, với việc thờ cúng các thần linh cơ bản theo Trung Hoa. Đó là Tam thanh Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Đạo Quân, Thái Thượng Lão Quân, Ngũ Nhạc mà nổi lên với Đông Phương Sóc và Tây Vương Mẫu, rồi Thánh Phụ, Thánh Mẫu. Cửu Diệu Tinh Quân Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Mặt Trời, Mặt Trăng, Hồ phủ, Kế đô đồng thời trên chính điện cũng có cả tượng của Hoàng Quân giáo chủ Ngọc Hoàng. Có thể kể tới các quán điển hình như Hưng Thánh Quán, Lâm Dương Quán, Hội Linh Quán, Linh Tiên Quán… đều ở Hà Tây cũ nay là Hà Nội. “Thăng Long Tứ quán” bao gồm Chân Vũ quán tức đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh; Huyền Thiên cổ quán nay là chùa Quán Huyền Thiên ở phố Hàng Khoai; Đồng Thiên quán nay là chùa Kim Cổ ở phố Đường Thành; Đế Thích quán nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên. Am là gì? Hiện được coi là một kiến trúc nhỏ thờ Phật. Gốc của Am từ Trung Quốc, được mô tả như ngôi nhà nhỏ, lợp lá, dùng làm nơi ở của con cái chịu tang cha mẹ, về sau đổi kết cấu với mái tròn, lợp lá, làm nơi ở và nơi đọc sách của văn nhân. Từ đời Đường, Am là nơi tu hành và thờ Phật của ni cô đặt trong vườn tư gia. Với người Việt, Am là nơi thờ Phật Hương Hải am tức Chùa Thầy, Thọ Am tức Chùa Đậu – Hà Tây… cũng có khi am là ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của xóm làng – Vào thế kỷ XV thời Lê sơ là nơi ở tĩnh mịch để đọc sách làm thơ của văn nhân. Miếu thờ thần linh ở các làng hoặc miếu cô hồn ở bãi tha ma cũng gọi là Am./.
Chùa là gì?Đình là gì? Đình thờ ai?Đền là gì? Đền thờ ai?Miếu là gì? Miếu thờ ai?Nghè là gì? Nghè thờ ai?Điện thờ là gì?Phủ là gì?Quán là gì?Am là gì?Nhưng không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của những địa điểm thờ cúng đó. Cho nên có rất nhiều người đi chùa mà không hiểu được ý nghĩa của việc đi chùa, ở gần nhà có cái đình mà cũng không hiểu vì sao cái đình lại “mọc” lên ở đó. Bài viết này sẽ giúp độc giả dễ dàng phân biệt được các địa điểm thờ cúng khác nhau, hiểu được ý nghĩa của việc thờ cúng và những nhân vật được thờ cúng trong đó. Chùa là gì? Chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo, là nơi tập trung sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng, ni. Mọi người kể cả tín đồ hay người không theo đạo đều có thể đến thăm viếng, nghe giảng kinh hay thực hành các nghi lễ Phật giáo. Ở một số nơi, chùa cũng là nơi cất giữ xá lị và chôn cất các vị đại sư. Đình là gì? Đình thờ ai? Đình là nơi thờ Thành hoàng của các làng, đồng thời là nơi hội họp, bàn việc của dân làng. Đình được coi là trung tâm sinh hoạt văn hóa gắn bó với một cộng đồng cư dân và mang đặc trưng của nền văn minh lúa nước Việt Nam. Thành hoàng là người có công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng lập nên một nghề ông tổ của nghề. Dưới các triều vua thường có sắc phong cho Thành hoàng, vì hầu hết Thành hoàng đều có công với nước. Dân làng, hay phường hội đi lập nghiệp nơi khác cũng xây miếu, đền thờ Thành hoàng quê gốc của mình tại nơi ở mới. Đền là gì? Đền thờ ai? Đền là công trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị Thánh hoặc những nhân vật lịch sử được tôn sùng như thần thánh. Ở Việt Nam, phổ biến nhất là các đền thờ được xây dựng để ghi nhớ công ơn của các anh hùng có công với đất nước hay công đức của một cá nhân với địa phương được dựng theo truyền thuyết dân gian. Các đền nổi tiếng có thể kể đến ở nước ta như Đền Hùng, đền Kiếp Bạc, đền Sóc, đền Trần Nam Định… thờ các anh hùng dân tộc. Đền Voi Phục, đền Bạch Mã, đền Kim Liên, đền Quán Thánh…thờ các vị thánh theo truyền thuyết dân gian. Miếu là gì? Miếu thờ ai? Miếu là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có quy mô nhỏ hơn đền. Đối tượng được thờ ở miếu rất đa dạng, thể hiện ở tên gọi của miếu – tên gọi theo đối tượng được thờ thường phiếm chỉ và tượng trưng. Ví dụ miếu Cô, miếu Cậu, miếu thờ thần núi gọi chung là miếu Sơn thần, miếu thờ thần nước gọi là miếu Hà Bá hoặc miếu Thủy thần. Miếu thờ thần đất gọi là miếu thổ thần hoặc thần Hậu thổ. Miếu thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để quỷ thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân sinh. Ở một số nơi, trong các ngày giỗ thần như ngày sinh, ngày hóa nhân thần, ngày hiện hóa thiên thần làng mở tế lễ, mở hội, nghinh rước thần từ miếu về đình. Tế lễ xong, lại rước thần về miếu yên vị. Miếu nhỏ còn được gọi là Miễu cách gọi của người miền Nam. Nghè là gì? Nghè thờ ai? Một hình thức của đền miếu, thờ thần thánh. Đây là kiến trúc thường có mối quan hệ chặt chẽ với một di tích trung tâm nào đó. Nghè có khi thờ thành hoàng làng ở làng nhỏ, được tách ra từ làng gốc như Nghè Hải Triều Cẩm Giàng – Hải Dương. Nghè cũng có thể là một ngôi đền nhỏ của một thần trong xã nhằm thích ứng với dân sở tại để tiện việc sinh hoạt tâm linh khi ngôi đền chính khó đáp ứng được nhu cầu thờ cúng thường nhật, như Nghè ở Trường Yên là một kiến trúc phụ của đền vua Đinh. Hiện ngôi nghè cổ nhất được tìm thấy từ thế kỷ XVII. Điện thờ là gì? Điện là sảnh đường cao lớn, thường chỉ chỗ Vua Chúa ở, chỗ Thần Thánh ngự. Như vậy Điện thờ là một hình thức của Đền, là nơi thờ Thánh trong tín ngưỡng Tam tứ phủ. Tuy vậy quy mô của Điện nhỏ hơn Đền và Phủ, lớn hơn so với Miếu Thờ. Điện thông thường thờ Phật, thờ Mẫu, Công đồng Tam tứ phủ, Trần Triều và các vị thần nổi tiếng khác. Điện có thể của cộng đồng hoặc tư nhân. Trên bàn thờ thường có ngai, bài vị, khám, tượng chư vị thánh thần và các đồ thờ khác tam sơn, bát hương, cây nến, đài, lọ hoa, vàng mã,… Phủ là gì? Phủ là đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu tín ngưỡng bản địa của người Việt Nam. Một số nơi thờ tự ở Thanh Hóa gọi đền là phủ. Có thể hiểu Phủ là nơi thờ tự Thánh Mẫu khá sầm uất, mang tính chất trung tâm của cả một vùng lớn, vượt ra ngoài phạm vi địa phương, thu hút tín đồ khắp nơi đến hành hương tương tự như chốn Tổ của sơn môn đạo Phật. Ngôi phủ sớm nhất còn lại hiện biết là điện thờ các thần vũ nhân ở chùa Bút Tháp, có niên đại vào giữa thế kỷ XVII. Quán là gì? Quán là một dạng đền gắn với đạo Lão Đạo giáo. Vào các thế kỷ XI và XIV đạo Lão ở Việt nặng xu hướng thần tiên nên điện thờ thực chất giống như một đền thờ thần thánh. Sang tới thế kỷ XVI và XVII, sự khủng hoảng của Nho giáo đã đẩy một số nhà Nho và một bộ phận dân chúng quan tâm nhiều tới Lão giáo, và điện thờ đạo Lão có nhiều sự phát triển mới, với việc thờ cúng các thần linh cơ bản theo Trung Hoa. Đó là Tam thanh Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Đạo Quân, Thái Thượng Lão Quân, Ngũ Nhạc mà nổi lên với Đông Phương Sóc và Tây Vương Mẫu, rồi Thánh Phụ, Thánh Mẫu. Cửu Diệu Tinh Quân Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Mặt Trời, Mặt Trăng, Hồ phủ, Kế đô đồng thời trên chính điện cũng có cả tượng của Hoàng Quân giáo chủ Ngọc Hoàng. Có thể kể tới các quán điển hình như Hưng Thánh Quán, Lâm Dương Quán, Hội Linh Quán, Linh Tiên Quán… đều ở Hà Tây cũ nay là Hà Nội. “Thăng Long Tứ quán” bao gồm Chân Vũ quán tức đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh; Huyền Thiên cổ quán nay là chùa Quán Huyền Thiên ở phố Hàng Khoai; Đồng Thiên quán nay là chùa Kim Cổ ở phố Đường Thành; Đế Thích quán nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên. Am là gì? Hiện được coi là một kiến trúc nhỏ thờ Phật. Gốc của Am từ Trung Quốc, được mô tả như ngôi nhà nhỏ, lợp lá, dùng làm nơi ở của con cái chịu tang cha mẹ, về sau đổi kết cấu với mái tròn, lợp lá, làm nơi ở và nơi đọc sách của văn nhân. Từ đời Đường, Am là nơi tu hành và thờ Phật của ni cô đặt trong vườn tư gia. Với người Việt, Am là nơi thờ Phật, cũng có khi am là ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của xóm làng – Vào thế kỷ XV thời Lê sơ là nơi ở tĩnh mịch để đọc sách làm thơ của văn nhân. Miếu thờ thần linh ở các làng hoặc miếu cô hồn ở bãi tha ma cũng gọi là Am. Tìm hiểu về văn hóa tâm linh của người Việt từ xưa tới nay. Phong tục tập quán, tín ngưỡng Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Đạo Mẫu.
Đình làng Đình Bảng. Bài viết này sẽ giúp bạn đọc dễ dàng phân biệt được các địa điểm thờ cúng khác nhau, hiểu được ý nghĩa của việc thờ cúng và những nhân vật được thờ cúng trong đó. Chùa là gì? Chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo, là nơi tập trung sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng, ni. Mọi người kể cả tín đồ hay người không theo đạo đều có thể đến thăm viếng, nghe giảng kinh hay thực hành các nghi lễ Phật giáo. Ở một số nơi, chùa cũng là nơi cất giữ xá lị và chôn cất các vị đại sư. Đình là gì? Đình là nơi thờ Thành hoàng của các làng, đồng thời là nơi hội họp, bàn việc của dân làng. Đình được coi là trung tâm sinh hoạt văn hóa gắn bó với một cộng đồng cư dân và mang đặc trưng của nền văn minh lúa nước Việt Nam. Thành hoàng là người có công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng lập nên một nghề ông tổ của nghề. Dưới các triều vua thường có sắc phong cho Thành hoàng, vì hầu hết Thành hoàng đều có công với nước. Dân làng, hay phường hội đi lập nghiệp nơi khác cũng xây miếu, đền thờ Thành hoàng quê gốc của mình tại nơi ở mới. Đền là gì? Đền là công trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị Thánh hoặc những nhân vật lịch sử được tôn sùng như thần thánh. Ở Việt Nam, phổ biến nhất là các đền thờ được xây dựng để ghi nhớ công ơn của các anh hùng có công với đất nước hay công đức của một cá nhân với địa phương được dựng theo truyền thuyết dân gian. Các đền nổi tiếng có thể kể đến ở nước ta như Đền Hùng, đền Kiếp Bạc, đền Sóc, đền Trần… thờ các anh hùng dân tộc. Đền Voi Phục, đền Bạch Mã, đền Kim Liên, đền Quán Thánh…thờ các vị thánh theo truyền thuyết dân gian. Miếu là gì? Miếu là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có quy mô nhỏ hơn đền. Đối tượng được thờ ở miếu rất đa dạng, thể hiện ở tên gọi của miếu – tên gọi theo đối tượng được thờ thường phiếm chỉ và tượng trưng. Ví dụ miếu Cô, miếu Cậu, miếu thờ thần núi gọi chung là miếu Sơn thần, miếu thờ thần nước gọi là miếu Hà Bá hoặc miếu Thủy thần. Miếu thờ thần đất gọi là miếu thổ thần hoặc thần Hậu thổ. Miếu thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để quỷ thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân sinh. Ở một số nơi, trong các ngày giỗ thần như ngày sinh, ngày hóa nhân thần, ngày hiện hóa thiên thần làng mở tế lễ, mở hội, nghinh rước thần từ miếu về đình. Tế lễ xong, lại rước thần về miếu yên vị. Miếu nhỏ còn được gọi là Miễu cách gọi của người miền Nam. Nghè là gì? Một hình thức của đền miếu, thờ thần thánh. Đây là kiến trúc thường có mối quan hệ chặt chẽ với một di tích trung tâm nào đó. Nghè có khi thờ thành hoàng làng ở làng nhỏ, được tách ra từ làng gốc như Nghè Hải Triều Cẩm Giàng – Hải Dương. Nghè cũng có thể là một ngôi đền nhỏ của một thần trong xã nhằm thích ứng với dân sở tại để tiện việc sinh hoạt tâm linh khi ngôi đền chính khó đáp ứng được nhu cầu thờ cúng thường nhật, như Nghè ở Trường Yên là một kiến trúc phụ của đền vua Đinh. Hiện ngôi nghè cổ nhất được tìm thấy từ thế kỷ XVII. Điện thờ là gì? Điện là sảnh đường cao lớn, thường chỉ chỗ Vua Chúa ở, chỗ Thần Thánh ngự. Như vậy Điện thờ là một hình thức của Đền, là nơi thờ Thánh trong tín ngưỡng Tam tứ phủ. Tuy vậy quy mô của Điện nhỏ hơn Đền và Phủ, lớn hơn so với Miếu Thờ. Điện thông thường thờ Phật, thờ Mẫu, Công đồng Tam tứ phủ, Trần Triều và các vị thần nổi tiếng khác. Điện có thể của cộng đồng hoặc tư nhân. Trên bàn thờ thường có ngai, bài vị, khám, tượng chư vị thánh thần và các đồ thờ khác tam sơn, bát hương, cây nến, đài, lọ hoa, vàng mã,… Phủ là gì? Phủ là đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu tín ngưỡng bản địa của người Việt Nam. Một số nơi thờ tự ở Thanh Hóa gọi đền là phủ. Có thể hiểu Phủ là nơi thờ tự Thánh Mẫu khá sầm uất, mang tính chất trung tâm của cả một vùng lớn, vượt ra ngoài phạm vi địa phương, thu hút tín đồ khắp nơi đến hành hương tương tự như chốn Tổ của sơn môn đạo Phật. Ngôi phủ sớm nhất còn lại hiện biết là điện thờ các thần vũ nhân ở chùa Bút Tháp, có niên đại vào giữa thế kỷ XVII. Quán là gì? Quán là một dạng đền gắn với đạo Lão Đạo giáo. Vào các thế kỷ XI và XIV đạo Lão ở Việt nặng xu hướng thần tiên nên điện thờ thực chất giống như một đền thờ thần thánh. Bích Câu đạo quán. Sang tới thế kỷ XVI và XVII, sự khủng hoảng của Nho giáo đã đẩy một số nhà Nho và một bộ phận dân chúng quan tâm nhiều tới Lão giáo, và điện thờ đạo Lão có nhiều sự phát triển mới, với việc thờ cúng các thần linh cơ bản theo Trung Hoa. Đó là Tam thanh Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Đạo Quân, Thái Thượng Lão Quân, Ngũ Nhạc mà nổi lên với Đông Phương Sóc và Tây Vương Mẫu, rồi Thánh Phụ, Thánh Mẫu. Cửu Diệu Tinh Quân Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Mặt Trời, Mặt Trăng, Hồ phủ, Kế đô đồng thời trên chính điện cũng có cả tượng của Hoàng Quân giáo chủ Ngọc Hoàng. Có thể kể tới các quán điển hình như Hưng Thánh Quán, Lâm Dương Quán, Hội Linh Quán, Linh Tiên Quán… đều ở Hà Tây cũ nay là Hà Nội. “Thăng Long Tứ quán” bao gồm Chân Vũ quán tức đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh; Huyền Thiên cổ quán nay là chùa Quán Huyền Thiên ở phố Hàng Khoai; Đồng Thiên quán nay là chùa Kim Cổ ở phố Đường Thành; Đế Thích quán nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên. Am là gì? Hiện được coi là một kiến trúc nhỏ thờ Phật. Gốc của Am từ Trung Quốc, được mô tả như ngôi nhà nhỏ, lợp lá, dùng làm nơi ở của con cái chịu tang cha mẹ, về sau đổi kết cấu với mái tròn, lợp lá, làm nơi ở và nơi đọc sách của văn nhân. Từ đời Đường, Am là nơi tu hành và thờ Phật của ni cô đặt trong vườn tư gia. Với người Việt, Am là nơi thờ Phật Hương Hải am tức Chùa Thầy, Thọ Am tức Chùa Đậu – Hà Tây… cũng có khi am là ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của xóm làng – Vào thế kỷ XV thời Lê sơ là nơi ở tĩnh mịch để đọc sách làm thơ của văn nhân. Miếu thờ thần linh ở các làng hoặc miếu cô hồn ở bãi tha ma cũng gọi là Am./. Tôi là Nguyễn Văn Sỹ có 15 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực thiết kế, thi công đồ nội thất; với niềm đam mê và yêu nghề tôi đã tạo ra những thiết kếtuyệt vời trong phòng khách, phòng bếp, phòng ngủ, sân vườn… Ngoài ra với khả năng nghiên cứu, tìm tòi học hỏi các kiến thức đời sống xã hội và sự kiện, tôi đã đưa ra những kiến thức bổ ích tại website Hy vọng những kiến thức mà tôi chia sẻ này sẽ giúp ích cho bạn!
chùa đền và đình khác nhau như thế nào